DANH TĂNG - CHÙA CỔ

Hoà Thượng THÍCH BẢO AN
Tác giả : Lê Bích Sơn



Đại Lão Hoà Thượng THÍCH BẢO AN
  



CÁO BẠCH TANG LỄ
 
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh Việt Nam và Môn đồ Pháp quyến Tổ Đình Phổ Bảo vô cùng kính tiếc báo tin:

Đại Lão Hòa Thượng THÍCH BẢO AN
             - Trưởng Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Bình Định
             - Thành viên sáng lập Tu viện Nguyên Thiều - Bình Định
             - Viện chủ Tổ Đình Phổ Bảo – Tuy Phước, Bình Định

Sau một thời gian bệnh duyên, mặc dù đã được môn đồ và các y bác sĩ tận tình chữa trị, nhưng thân tứ đại của Hòa Thượng đã đến lúc thuận thế vô thường, an nhiên viên tịch vào lúc: 01 giờ 45 phút sáng ngày 22 tháng Giêng năm Tân Mão (nhằm ngày 24 tháng 2 năm 2011). Tại: Tổ Đình Phổ Bảo – xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, Bình Định.
Trụ thế: 98 năm, 70 Hạ lạp.
Lễ nhập quan vào lúc: 3 giờ chiều ngày 22 tháng Giêng năm Tân Mão (nhằm ngày 24 tháng 2 năm 2011).
Lễ truy niệm và cung tiễn kim quan nhập đại bảo tháp sẽ được cử hành vào lúc: 7 giờ sáng ngày 27 tháng Giêng năm Tân Mão (nhằm ngày 01 tháng 3 năm 2011).
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh Việt Nam và Môn đồ Pháp quyến Tổ Đình Phổ Bảo kính báo và cung thỉnh chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, Phật tử thân lâm đạo tràng Phổ Bảo để kính viếng, hộ niệm và tiễn đưa nhục thân Đại Lão Hòa Thượng nhập đại bảo tháp được thập phần viên mãn.

          Nay kính tin,

Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh Việt Nam
Môn đồ Pháp quyến Tổ Đình Phổ Bảo Bình Định


Đại Lão Hoà Thượng THÍCH BẢO AN

“Trung Bộ Đạo Thọ,
Long Tượng Thiền Môn,
Chúc Thánh Đống Lương,
Cao Tăng Giáo Hội”

         Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
Năm 1926 – Khi vừa tròn 12 tuổi – vốn sẵn chủng tử Bồ Ðề từ nhiều kiếp, cơ duyên đã đủ, nhân xuất gia đến thời bộc phát, cáo biệt  song thân Hoà Thượng đến Tổ đình Hưng Khánh thuộc thôn Hưng Nghĩa, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, Bình Ðịnh, xin đầu sư cùng Ngài thượng CHƠN hạ HƯƠNG, hiệu CHÍ BẢO; nhưng bấy giờ, Ngài CHÍ BẢO vì tuổi đã cao, nên chỉ định đệ tử mình là Ngài thượng TÂM hạ ẤN, húy NHƯ HÒA - thuộc đời Lâm tế Chánh Tông thứ bốn mươi mốt – tiếp thọ và trực tiếp hướng dẫn.
Sau khi xuất gia, với bẩm chất thông minh, tính tình nhu hòa, thuần hậu, cùng với sự cần mẫn hầu Thầy học đạo, Hòa Thượng được các bậc trưởng thượng hết mực tin yêu, chư pháp hữu, đệ huynh đều quý mến. Ngày đến, Hoà Thượng cùng chúng trong chùa chấp lao phục dịch; Ðêm về dưới ngọn đèn dầu, Hoà Thượng được Ngài CHÍ BẢO truyền dạy những giáo nghĩa thâm thuý Phật học, cùng các nghi thức Du Già. Tuy việc học tập và việc chúng trong chùa khá nhiều, nhưng Hoà Thượng vẫn chu toàn mọi trách nhiệm của một người thị giả đối với Sư Ông mình là Ngài CHÍ BẢO, cùng phụ giúp Bổn sư là Ngài TÂM ẤN, những công việc thường nhật trong chùa. Với sự nỗ lực trau dồi Ðiển chương, tinh tấn hành trì Kinh kệ, cần mẫn hoàn tất mọi công việc của Chúng giao phó, chẳng bao lâu Hoà Thượng đã dõng mãnh vượt xa huynh đệ đồng môn.
Năm1931, Hoà Thượng thọ Sa Di giới tại Giới đàn Trường kỳ Phước Sơn – Bồng Sơn, do Ngài CAM LỒ làm Ðàn Ðầu Hoà Thượng, Ngài CHÍ BẢO làm Chứng Minh Ðạo Sư, Ngài BÍCH LIÊN làm Tuyên Luật Sư.
Năm 1932, Ngài TÂM ẤN được hương quyền tộc thuộc cùng bổn đạo cung thỉnh về trụ trì Tổ đình Phổ Bảo. Hoà Thượng được chính thức theo Ngài TÂM ẤN về chùa Phổ Bảo, để phụ giúp Bổn sư trông coi việc Chùa, thay thế Bổn sư điều hành công việc Chúng, trong những lúc Ngài TÂM ẤN bận Phật sự. Với tâm tinh cần không quản ngại khó khăn cực nhọc, mọi công việc do Ngài TÂM ẤN giao phó, Hòa Thượng đều hoan hỷ đón nhận và cố gắng chu toàn, nên ngày Hòa Thượng càng được Bổn sư tin tưởng thương mến.
Năm 1938, vì tuổi cao sức yếu nên Ngài CHÍ BẢO đặc cử  Ngài TÂM ẤN trực tiếp đảm nhận công việc điều hành Phật sự tại Tổ đình Hưng Khánh. Cùng năm đó, Phật Học đường Long Khánh do hội Phật học Bình Ðịnh tổ chức tại chùa Long Khánh - Qui Nhơn, Hòa Thượng được Ngài TÂM ẤN giới thiệu theo học dưới sự chỉ dạy của Quốc Sư THÍCH PHƯỚC HUỆ.  
Năm 1940, Ngài TRÍ ÐỘ - bấy giờ đang là Giám đốc Trường An Nam Phật Học – từ Huế về Bình Ðịnh, đảnh lễ ngài Chí Bảo và xin phép ngài Tâm Ấn được phép bảo lãnh Hoà Thượng ra Huế tham học. Cơ duyên đã đến, Hòa Thượng theo gót Ngài TRÍ ÐỘ ra Trường An Nam Phật Học tại Chùa Trúc Lâm - Huế tiếp tục nâng cao kiến thức Phật học. Ðồng học môn của Hoà Thượng ngày ấy gồm: HT. Thích Trí Quang, HT. Thích Thiện Siêu, HT. Thích Thiện Minh, HT. Thích Huyền Quang, HT. Thích Phước Trí, HT. Thích Tâm Hoàn.
Năm 1942, Ðại giới đàn được tổ chức tại Tổ Ðình Hưng Khánh do Ngài CHƠN HƯƠNG hiệu CHÍ BẢO làm Hòa Thượng Ðường Ðầu. Nhận biết cơ duyên đã đủ, ngài TÂM ẤN cho phép Hòa Thượng đăng đàn thọ Cụ túc giới, chính thức nhận Y – Bát, bước lên giới phẩm Tỳ Kheo, ngõ hầu nối gót Chư Tổ “hành Như Lai sứ, tác Như Lai sự”.
           Năm 1943, chính trường trong nước gặp nhiều thay đổi, Trường An Nam Phật Học phải tạm thời đóng cửa, Hòa Thượng trở về Tổ Ðình Phổ Bảo tiếp tục phụ giúp Bổn sư trong công việc trùng kiến Tổ Ðình Phổ Bảo, cũng như đảm trách những Phật sự ở tỉnh nhà. Việc theo học tại Trường An Nam Phật Học của Hoà Thượng bị gián đoạn kể từ đó.
Năm 1947, hưởng ứng lời kêu gọi của Uỷ ban hành chánh kháng chiến Nam Trung Bộ, Hội Thanh Niên Cứu Quốc, Hòa Thượng cùng chư sơn lúc bấy giờ khởi xướng và sáng lập Ðoàn Thanh niên Tăng sĩ Bình Ðịnh. Tổ chức này bấy giờ hoạt động nằm trong bí mật, Chủ tịch là HT. Thích Giác Tánh, Hòa Thượng được cử làm Phó Chủ tịch, cùng với HT. Thích Huyền Quang và HT. Thích Tâm Hoàn làm thư ký và giáo thọ.
           Năm 1948, Ngài CHƠN  HƯƠNG hiệu CHÍ BẢO viên tịch, Ngài TÂM ẤN trở về Tổ Ðình Hưng Khánh lo việc tang lễ và kế thừa trụ trì Tổ Ðình Hưng Khánh cho đến ngày viên tịch. Hòa Thượng được Bổn sư chính thức truyền trao trách nhiệm trụ trì Tổ đình Phổ Bảo.
Năm 1949, Hòa Thượng được cử làm Hội trưởng Hội Phật giáo Tuy Phước. Cùng năm này, Hòa Thượng cùng chư Tôn đức trong Tỉnh đứng ra cổ động thành lập chúng Lục Hòa tỉnh Bình Ðịnh, và Hoà thượng được mời giữ chức vụ Chúng trưởng huyện Tuy Phước (năm 1951).
Năm 1952, Hòa Thượng được mời làm Cố vấn đoàn chúng A –Nan.
Sau hiệp định Genève, Hòa Thượng vẫn tiếp tục được cử làm Hội trưởng Hội Phật Giáo huyện Tuy Phước.
Năm 1958, dù phải đảm trách khá nhiều phật sự của Giáo hội, dù phải lo chu toàn mọi việc tiếp Tăng độ chúng trong Chùa giữa thời buổi khó khăn của cuộc chiến. Song, Hòa Thượng vẫn cùng chư tôn đức trong Tỉnh, như: Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Tâm Hoàn, HT Thích Ðồng Thiện, Hòa Thượng Thích Ðổng Quán.v.v. cùng chung bắt tay nhau đứng ra sáng lập Tu viện Nguyên Thiều, dùng làm cơ sở “Bồi Dục Tăng Tài” cho Tỉnh nhà và Giáo hội.  Buổi đầu Phật Học viện Nguyên Thiều ra đời, Hòa Thượng được bầu làm Phó Ban Quản trị khóa I (năm 1960).
Năm 1963, Ngài Tâm Ấn viên tịch, Hoà Thượng được tín đồ cung thỉnh về giữ trách vụ trụ trì Chùa Hưng Khánh. Từ đó “một bổn hai quê” Hoà Thượng đảm trách điều hành và chu toàn mọi Phật sự ở cả hai ngôi Tổ Ðình: Phổ Bảo và Hưng Khánh.
Năm 1964, Hoà Thượng trùng kiến lại toàn bộ chùa Hưng Khánh một cách quy mô và khang trang như ngày nay. Cùng năm đó, chính trường trong nước gặp nhiều biến cố, cuộc chiến ở miền Trung Việt Nam ngày một trở nên khốc liệt. Trước tình hình đó, Hoà Thượng nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt những Tăng sinh đang tu học tại Phật học viện Nguyên Thiều thời bấy giờ vào Sài-gòn lánh nạn. Tại Sài-gòn, Hoà Thượng  được tín đồ cung thỉnh nhận chức trụ trì Niệm Phật Ðường Ấp Tây Ba, Phú Nhuận. Cuối năm đó, Hoà Thượng xây dựng khang trang lại ngôi Niệm Phật Ðường này và cải hiệu thành Giác Uyển Tự.
Cũng năm 1964, với phong cách diễn xuất cổ truyền già dặn, nhuần nhuyễn, uyển chuyển các Khoa nghi, Tiết thứ trong Nghi lễ của Thiền gia Bình Ðịnh, Hòa Thượng được mời làm Ðặc Ủûy nghi lễ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình Ðịnh, khóa I.
Năm 1965, Hòa Thượng được mời làm Chánh Ðại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất huyện Tuy Phước.
Năm 1968, Hòa Thượng được Chư tôn đức cung thỉnh giữ chức vụ Ðặc Ủy Tăng sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình Ðịnh, khóa II.
Năm 1969, Hòa Thượng tiếp tục được mời làm Phó Giám đốc Phật Học viện Nguyên Thiều, khóa II.
Năm 1973, Hoà Thượng giữ chức vụ Ðặc Ủy cư sĩ  Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình Ðịnh, khóa III.
Năm 1979, Hoà Thượng được mời làm Phó Ban đặc cách giáo dục Tăng ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Nghĩa Bình, khóa I. Trưởng Ban Ðại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam huyện Tuy Phước.
Năm 1985, Hoà Thượng là Thành viên trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Nghĩa Bình, Trưởng ban Nghi lễ và kiểm soát Tăng ni, Phật tử khóa II.
Từ năm 1989 đến nay, Hoà Thượng là một trong những vị Hoà Thượng Chứng minh cao niên trong hàng Tôn Túc của Phật giáo Bình Ðịnh.  
Năm 1999, với sự nghiêm trì giới Luật, oai  nghi khả kính cùng những đóng góp Phật sự to lớn của Hòa Thượng, tại Phương Trượng Tổ Ðình Chúc Thánh – Hội An, toàn thể môn phái Chúc Thánh Minh Hải suy tôn và cung thỉnh Hòa Thượng làm Trưởng Môn phái Chúc Thánh Minh Hải tại ba tỉnh Bình Ðịnh, Phú Yên và Quảng Ngãi, ngõ hầu làm tấm gương sáng cho hàng hậu bối noi theo (ngày 7/11/1999).
Năm 2000, Hoà Thượng được cung thỉnh làm Chứng Minh Ðạo Sư Ðại giới Ðàn Chánh Nhơn – Bình Ðịnh. Cùng năm, Hoà Thượng được Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ cung thỉnh chứng minh Ðại lễ Cung nghinh và Triển lãm xá lợi Phật Tổ tại Bồ Ðề Ðạo Tràng – Ấn Ðộ.
Ðầu năm 2001, sau khi chiêm bái các Thánh tích Phật giáo tại Ấn Ðộ và Népal, trên đường trở về Việt nam, Hoà Thượng đến viếng Vương quốc Phật giáo Thái Lan. 
Nay tuổi đã cao (hiện thọ 89 tuổi), sức khoẻ ngày một yếu dần, nên Hòa Thượng giao phó việc trụ trì Tổ Ðình Phổ Bảo cùng những Phật sự  cho đệ tử là Thượng tọa Thích Ðồng Chơn, để niệm Phật – an dưỡng tuổi về chiều.

Lê Bích Sơn phụng soạn
Tháng 6 năm 2002


***

Đại Lão Hoà Thượng THÍCH BẢO AN


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

 
               Kính lễ giác linh đại Lão Bảo An Hoà Thượng.
                Đăng Lâm Phật Quốc Tọa Bảo Liên Đài !
 
Câu Đối Thầm Thương Lòng Đức Độ :
 
1.Bảo An Hòa Thượng Nhất Đại Tôn Sư Đại Hỷ Đại Từ Trung Nam Bắc Phái Tề Tâm Kính Ngưởng.
 
2. Phổ Bảo Danh Lam Thiên Ban Diệu Dụng Ban Tuệ Ban Ân Thượng Hạ Biên Phương Chí niệm Quy Y.
 
Kính lễ bạch Giác Linh Hòa-Thượng,
Nay đã qua 64 năm, Tưởng nhớ năm Đinh-hợi 1947, Tôi với Tăng đoàn Bình Định thời đó, cùng sát cánh Hoằng Pháp bên nhau. 12 giờ khuya Tôi đến và ở với  Ngài suốt 5 hôm.
  Ngài nhổ “Nấm rơm tươi với cải non” đải tôi thọ dụng thời kham khổ ấy… Để lại lòng nhiều kính nhớ… !
  Tôi kính Ngài bậc đàn anh đức độ !
  Ngài coi tôi trong dòng kệ chữ Như. Tương kính tương thân!
Nay kính lễ dâng Câu Đối điếu Giác Linh Ngài !
Kính xin Giác Linh Hoà-Thượng Từ Bi Chứng Giám.
 
Chia sớt nỗi buồn với chư tôn môn đồ cùng quí quyến, Tôi xin kính nhất tâm cầu nguyện Thượng Phẩm Thượng Sanh ! Dâng Ngài. Và mong chư tôn môn noi gương Đức Độ của Cố Hoà Thượng !
 
HT. Thích Huyền Tôn
Ngày mùng 2 Tháng Hai Tân-mão 4890.

Chứng Minh Đạo Sư
GH Úc Châu.



THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM TÔN SƯ
Cố Đại Lão Hoà Thượng THÍCH BẢO AN
- Trưởng Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Bình Định
- Thành viên sáng lập Tu viện Nguyên Thiều - Bình Định
- Viện chủ Tổ Đình Phổ Bảo - Tuy Phước, Bình Định
* * *
Thành kính đảnh lễ giác linh Sư Ông,
Mãi cho đến hôm nay, khi viên gạch cuối cùng được lát xuống nền chánh điện Đạo Tràng Phổ Hưng, con mới có chút thời gian rảnh để ngồi viết những dòng chữ muộn màn này, hầu kính dâng lên giác linh Sư Ông như một lời sám hối với tất cả thành tâm của một môn đệ Phổ Bảo – Hưng Khánh đang độc hành trên cuộc đăng trình viễn xứ.
Con ngồi đây xâu chuỗi lại những gì ký ức có thể ghi nhớ về Sư Ông - bậc “Tôn Túc Mô Phạm”, bậc “Long Tượng Thiền Môn” mà con từng có thiện duyên được gần gũi và thấm nhuần ân đức.
Ngưỡng bái bạch giác linh Sư Ông,
Nếu như cuộc đời mỗi con người đi theo một định mệnh, thì khúc quanh của mỗi một đoạn đường đời là dấu ấn khó phai mờ. Ngả rẽ cuộc đời con bắt đầu vào một ngày chớm Đông năm Đinh Mão. Ngày ấy con theo chân Mẹ bước qua cái cổng Tam quan cũ kỹ của chùa Hưng Khánh để bắt đầu cuộc hành trình của một người xuất gia học đạo. Và con được gần Sư Ông kể từ những ngày tháng đó…
Con còn nhớ rõ lắm. Lần đầu tiên gặp con, Sư Ông hỏi: “Con vô chùa làm gì?”; con trả lời: “Con muốn xuất gia, tu học.”; Sư Ông cười nói: “Vậy ‘da’ (gia) con bị ‘sứt’ (xuất) chỗ nào?”… con không biết trả lời sao, chỉ biết mỉm cười. Ngày con mới bắt đầu những bước chân sơ cơ ở chốn Thiền môn, chùa Hưng Khánh chỉ có mỗi một cuốn Kinh Nhật Tụng, khi học Kinh phải chép tay ra giấy để học. Con học thuộc Đại Bi, Thập Chú, v.v. trong thời gian rất ngắn. Phần thưởng những ngày đầu xuất gia Sư Ông dành cho con là một cuốn Nhật Tụng mới tinh từ Phổ Bảo mang về. Với con ngày ấy, được cuốn Kinh Nhật Tụng như Đường Tăng trong Tây Du Ký được chân Kinh!
Một năm sau, chùa có thêm chú Dũng. Sư thúc Đồng Văn từ Sài Gòn về ăn Tết bắt hai chú tiểu Hưng Khánh phải đi cắt tóc thật ngắn. Sư Ông từ Phổ Bảo về, hai đứa lên đảnh lễ… Sư Ông nhìn thật lâu rồi nói: “Chùa này nuôi hai điệu nhưng trái ngược nhau: một mập một ốm, một đen một trắng, một Đại Hàn một Ấn Độ…” (vì tóc con cắt ngắn ai cũng nói nhìn giống Đại Hàn). Và cái tên “Thằng nhỏ Đại Hàn” cũng được Sư Ông gọi con kể từ ngày đó.
Những năm cuối của thập niên 1980, đời sống quê mình còn nhiều cơ cực, cơm ăn không đủ no thì sao dám nghĩ đến chuyện áo ấm. Phần con chỉ có 2 bộ đồ vạc-khách để thay nhau những lúc đến trường. Sư Ông thương, gần Tết đem bộ đồ Phật tử Sài Gòn mới dâng cúng đưa cô Tám Nghĩa và dặn: “…chỉnh rộng rộng một chút để năm sau chú mặc còn vừa… Thằng nhỏ ở tuổi đang phát triển”. Sau Tết năm ấy, con mặc bồ đồ mới đi học với một niềm vui khó tả. Tấm hình chụp con mặc bộ đồ ấy giờ vẫn còn ở bên con!
Ngày con xuống Phổ Bảo, theo lời dặn của cô Hai (má Thầy Đồng Văn), con quỳ đảnh lễ Sư Ông trong lúc Sư Ông đang cùng Phật tử cắt đám ruộng trước ngõ chùa. Lúc ấy Sư Ông chỉ nói bốn tiếng: “Tội nghiệp thằng nhỏ”… và rươm rướm nước mắt cầm tay con dắt vào chùa… Những ngày ở Phổ Bảo, Sư Ông dạy con từng cử chỉ, oai nghi tế hạnh mà một Sa Di miền Trung cần phải có: từ những gì trong quyển Hạ của “Sa Di Luật Nghi Yếu Lược” đến những hành vi nhỏ như cách lạy Phật, đánh từng tiếng chuông, cắm từng cây hương…
Hết Trung học, con vào Sài Gòn để tiếp tục việc học. Trước ngày rời quê hương Bình Định, Sư Ông viết một bức thư tay và dặn con khi vào chùa Giác Uyển nên đưa trực tiếp lá thư ấy cho ‘Bố’ Huệ Minh… Con không biết nội dung viết gì trong đó, nhưng với con bức thư ấy như một cái chiếu khán ưu tiên đặc biệt (priority visa) để con bắt đầu những năm tháng trưởng thành ở đất Sài Gòn.
Những năm tháng con theo học Đại học ở miền Nam, vì theo học ngành Báo chí nên con giao du với khá nhiều bạn bè, nhất là nhiều bạn nữ học cùng trường Đại học Xã hội & Nhân văn hay đến chùa cùng ôn bài vở. Sư Ông sợ con tiếp xúc nhiều với nữ giới ‘vướng trần duyên’, rời bỏ chí nguyện của người xuất gia, nên lần nào Sư Ông vào Sài Gòn cũng gọi con lên nhắc khéo câu: “…Ông thấy con dạo này ‘mất an ninh’ lắm rồi đó nghen…
Mùa hè năm 2000, sau khi được Đại học Delhi - Ấn Độ gởi thư thông báo nhập học, con về lại Phổ Bảo một tuần để sống gần Sư Ông và ôn lại thời làm điệu trước ngày rời xa quê hương tham học. Trước lúc vào lại Sài Gòn để sang Ấn Độ, con đảnh lễ cáo biệt Sư Ông để lên đường, Sư Ông dặn con nhiều lắm, nhưng điều làm con nhớ mãi là: “…Học gì cũng được nhưng cố gắng dùng sở học của mình để phụng sự Tam-Bảo, giáo hội. Nếu có cởi áo hoàn tục thì đừng về đây gặp Sư Ông. Sư Ông không trách chuyện hoàn tục, nhưng Sư Ông quen nhìn mấy đứa con từ nhỏ đến giờ trong chiếc áo của một người tu rồi. Nếu thấy tụi con mặc chiếc áo nào khác đau lòng lắm!”… Con ra tháp Tổ thắp hương, nhìn lên mấy cây xoài trong vườn chùa năm nào cũng trỗ bông thật nhiều nhưng “đậu quả” đâu có bao nhiêu… Sau này trên chuyến bay đến nước Mỹ, con không sao cầm được nước mắt khi chứng kiến ánh mắt của con gấu trắng Bắc cực buồn tênh, bất lực khi nhìn chú gấu con trưởng thành hững hờ xa dần gấu mẹ…trong cuốn phim về đời sống động vật hoang dã được chiếu trên chuyến bay ấy… Và hôm nay, nhìn lại những lớp đệ tử - pháp tôn của Phổ Bảo - Hưng Khánh ai còn, ai mất sau những lần “rơi rụng” theo những lớp sóng thời gian và thế cuộc… Nghe có chút gì đó chạnh lòng!
Tình thương của Sư Ông không chỉ dành cho Tăng chúng, cho con người; mà ngay cả những sinh vật hữu tình Sư Ông cũng hết mực thương yêu. Sư Ông gọi những con vật nuôi trong chùa theo thứ tự “cu anh”, “cu em”, “cu tý”… Vì với Sư Ông, con vật cũng có tánh linh của nó, cũng như con người sống cần có tình thương, chỉ có điều chúng ta không thể nghe và hiểu được ngôn ngữ của chúng. Nhớ hồi đó, năm nào Sư Ông cũng về Hưng Khánh đón Tết. Đến giao thừa, con và Dũng phụ trách phần chuông trống Bát-Nhã, thời gian còn lại hai đứa nhặt pháo rơi đốt và ném vào “cu bi, cu đen, cu mực”. “Ba đứa…bi, đen, mực” sợ pháo bỏ chùa xuống “trốn” ở nhà Bà Tám. Sư Ông đi tìm và dắt “ba đứa” về chùa rồi chỉ vào hai đứa con, cười nói: “Hai chú điệu ham vui này làm “ba đứa” sợ bỏ chùa phải không?”… Ngày Sư Ông sang Ấn Độ chiêm bái các Thánh tích Phật giáo, khi về đến New Delhi, Sư Ông gọi điện về chùa dặn các chú điệu chăm sóc “mấy đứa nhỏ: cu anh, cu em, cu tý…”. Những ngày ở Delhi, Sư Ông nghỉ tại phòng 429 ký túc xá Mansarowar. Một buổi sáng ba Ông cháu ngồi uống trà, Sư Ông kể lại giấc mơ đêm trước nhìn thấy “cu tý bay qua Ấn Độ, leo lên cái giường gỗ của ký túc xá liếm chân Sư Ông”. Mấy ngày sau đó, khi Sư thúc Đồng Văn đưa Sư Ông về đến Sài Gòn thì hay tin “cu tý” đã ‘ra đi’ vào chính cái hôm Sư Ông nằm mơ…sau hơn hai tuần bỏ ăn nằm trước cổng chùa đợi Sư Ông về.
Con rời xa quê hương Bình Định gần 18 năm, bôn ba nơi đất khách quê người tại hải ngoại gần một vòng của 12 con giáp; nên ít khi được hầu cận Sư Ông. Mỗi lần có dịp về lại Tổ Đình Phổ Bảo con đều nhận được những lời chỉ giáo chân tình và đạo vị từ Sư Ông. Sư Ông vốn ít nói, nhưng lời nào phát xuất từ Sư Ông cũng phảng phất đạo tình và ưu tư cho cơ đồ Giáo hội, cho Đạo mạch Tông môn. Sư Ông ít phiên dịch, trước tác để viết lại những tác phẩm lưu truyền cho hậu thế, nhưng những lời đạo từ của Sư Ông trong những dịp an cư kiết hạ, tết Nguyên đán, trong các cuộc họp của Thiền phái Chúc Thánh… luôn là pháp ngữ - đạo ngôn, là khuôn vàng thước ngọc cho đàn hậu tấn của sơn môn noi theo. Và những lời nói ấy chỉ có thể xuất phát từ các bậc Tổ Đức Tôn Sư. Với con những lúc ấy Sư Ông là hiện thân của Bồ Tát, thể hiện đầy đủ oai phong của một bậc Đại sĩ giáng trần!
Lần cuối, con đảnh lễ Sư Ông trước khi trở lại Hoa Kỳ để tiếp tục cuộc hành trình của một người xuất gia, Sư Ông dạy: “Với Ông, cho dù có lấy được mười tấm bằng Tiến sĩ cũng không trân quý và lợi lạc bằng một bậc chân tu, mô phạm trong đời.” Lời dạy cuối cùng của Sư Ông có lẽ sẽ là phương châm sống cho con trong cuộc hành trình còn lại!
…Ngày tứ chúng Phật tử nơi quê nhà ngậm ngùi tiễn đưa nhục thân Sư Ông nhập bảo tháp, bên này bờ đại dương con bảo mấy anh thợ nghỉ sớm và dựng giúp con một bàn thờ tạm trong ngôi chánh điện đang thi công. Con ngồi đó trước di ảnh Sư Ông trong ngôi chánh điện còn dang dở của Phổ Hưng Đạo Tràng, niệm Phật suốt 4 giờ đồng hồ. Con niệm Phật bằng tất cả sự chí thành, chuyển tất cả những ngậm ngùi, thương nhớ thành năng lượng tâm linh hướng về Sư Ông trong giờ phút tiễn biệt Sư Ông về với đất mẹ ngàn thu. Trời Georgia hôm ấy mưa nặng hạt, những chuyến bay thay nhau vần vũ trên bầu trời Atlanta… Buồn tênh, bất lực!
…Hôm nay, ngoài kia những bông hoa Dogwood nở trắng cả đạo tràng, những cánh hoa rơi rụng phủ trắng khuôn viên Phổ Hưng. Hoa trắng tinh khôi hay hoa nhuốm màu tang trắng để nói lời chia ly với bậc Đại Sĩ Xuất Trần vừa tạ từ trần thế! Nắng và gió giữa khung trời Atlanta như cũng đang bàng hoàng, thổn thức tấu lên khúc biệt ly! Con ngồi đây với những chuỗi ký ức về Sư Ông - đấng Tôn Sư Thạc Đức vừa theo chư Tổ quảy dép về Tây - để viết lại những dòng tưởng niệm này với tất cả tâm thành kính. Ngưỡng nguyện giác linh Sư Ông thuỳ từ chứng giám!
Thành tâm kính nguyện giác linh Sư Ông:
Chu du Thế giới Ba ngàn an nhiên tự tại,
Dạo chơi Tây phương Tịnh Độ vô ngại thong dong!
Nhất Tâm Đảnh Lễ Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế Phổ Bảo - Hưng Khánh Đường Thượng Húy thượng THỊ hạ HUỆ, Tự HẠNH GIẢI, Hiệu BẢO AN Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh

Cung kính,
Con, Tỳ kheo THÍCH GIÁC HẠNH
Atlanta – Hoa Kỳ, mùa hoa nở năm Tân Mão – 2011

* Bài & ảnh => http://phatgiaodaichung.com/Bai2011/001tuongniemtonsu.htm




 


Chơn Tướng
Thích Như Điển

Lịch sử là một chuổi thời gian trải dài qua không gian vô tận của một kiếp nhân sinh. Thời gian vô cùng và không gian vô tận ấy, con người là chứng nhân của lịch sử. Nếu nói giáo dục là vấn đề nhân bản của con người, thì sự truyền đăng tục diệm trong cửa thiền là vấn đề sinh tử của Phật pháp.
Tôi biết Ngài từ năm 2003. Lúc ấy Ngài đang ở tuổi 90, một cái tuổi mà con người khó đạt được. Đó là Đại lão Hòa Thượng Thích Bảo An, Trưởng Môn Phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Bình Định. Khi Thầy tôi còn tại thế, Ngài hay vào thăm Bình Định để kết chặt tình môn phái Lâm Tế Chúc Thánh, thì Ngài và Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang là một trong những trụ cột của Phật giáo Bình Định thuở bấy giờ.
Năm 2003, với tôi là một năm quan trọng. Vì đây là một dấu mốc chuyển sang giai đoạn khác của công việc trụ trì Chùa Viên Giác tại Hannover Đức quốc, sau 25 năm đã thể hiện tại trời Tây và tôi đã quyết định trở về ngôi phương trượng. Do vậy, tôi đã cung thỉnh quý Ngài trong môn phái Chúc Thánh từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng đến Bình Định, Nha Trang, Sài Gòn… sang Đức để dự lễ nầy. Nhân cơ hội ấy, tôi đã gặp Ngài qua sự giới thiệu của thầy Đồng Văn thuở bấy giờ.
Ngài dáng người cao ráo, ăn nói hiền hòa. Thỉnh thoảng Ngài cho gọi đệ tử để sai bảo một vài công việc, nhưng đa phần thời gian còn lại Ngài hay nhớ và nghĩ về Bình Định, trong đó có mấy chú chó con tại chùa Phổ Bảo. Tôi không nghe Ngài nhắc về Thầy nào hay người nào của chùa mà chỉ thấy nhắc đến mấy con chó đang nuôi tại chùa. Quả thật, Ngài có một tình thương thiệt bao la vi diệu, không những đối với con người mà đối với mọi loại chúng sanh nữa.
Sau một tuần lễ Ngài ở tại chùa Viên Giác, Ngài bảo phải đổi vé máy bay để về lại Việt Nam, vì Ngài lúc nào cũng gọi tên của mấy con chó. Người già thường hay cô đơn và con chó hay trung thành với chủ. Do vậy mà con người nói chung, không mấy ai là ghét chó. Vì con chó ở bất cứ hoàn cảnh nào nó vẫn không nở bỏ chủ. Có thể chủ bỏ nó vào rừng hoang, chủ đem chó cho người khác; nhưng chó thì luôn vẫn tìm về với chủ.
Năm ấy, tôi đi đón Ngài tại phi trường Hannover và đón nhận hai tấm bảng sơn son thép vàng. Một của chùa Phổ Bảo tại Bình Định và một của chùa Giác Uyển tại Sài Gòn hiến tặng. Cả hai tấm ấy bây giờ vẫn còn tôn trí trên hai ngạch cửa ra vào tại Tổ Đường chùa Viên Giác. Nghe đâu cả hai tấm này đều do nghệ nhân Bình Định điêu khắc và nội dung bốn chữ của mỗi tấm là do Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang cho chữ. Đó là “Chúc Thánh Dư Hương” và “Chi Dinh Bổn Cố”. “Chúc Thánh Dư Hương” có nghĩa là hương thừa của Chúc Thánh. Chúng tôi là hậu duệ, con cháu của Tổ Minh Hải. Do vậy, Ngài cho bốn chữ nầy thật ý nghĩa vô cùng. Dầu cho ở Bình Định, Sài Gòn hay hải ngoại đi nữa, ở đâu chúng ta vẫn hưởng được cái hương thơm dư thừa ấy từ các vị Tổ Đức ngày xưa.
Bốn chữ thứ hai có nghĩa là “cành tốt, gốc chắc”.  Nếu cái gốc phát xuất từ Hội An, Quảng Nam cách đây 300 năm lịch sử mà không vững vàng do Tổ Minh Hải khai sơn phá thạch thì ngày nay con cháu của Tổ là những ngọn ngành, không thể  phát triển một cách tốt tươi, mạnh mẽ được. Người xưa thường bảo: “nhìn con biết mẹ” là vậy.  Nay riêng Tông Lâm Tế Chúc Thánh đã vươn xa ra tận hải ngoại. Từ châu Á qua châu Úc, châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. Đâu đâu cũng nghe đến pháp danh  đứng đầu với các chữ: Ấn, Chơn, Như, Thị, Đồng; Chúc, Thánh, Thọ, Thiên, Cửu…
Nếu ai đó bảo rằng tình của người Tăng sĩ là tình Linh Sơn cốt nhục, thì đạo tình của những người cùng môn phái là tình của Tông môn pháp phái cũng chẳng sai tí nào. Vì lẽ Phật thì sống cách xa chúng ta quá nhiều, chỉ có những vị Tổ sáng lập ra môn phái để truyền thừa và nối dòng pháp của Đức Thế Tôn; so ra Tổ gần hơn Phật và vị Thầy thế độ cho ta lại gần hơn Tổ. Nếu không có những bậc Long Tượng của Thiền môn, hiện chơn tướng của những bậc xuất trần thượng sĩ thì không có ai dẫn ta vào nẻo Đạo. Do vậy mà theo giáo lý Phật giáo Kim Cang Thừa, người đệ tử xem vị Thầy Bổn Sư của mình còn gần gũi và quan trọng hơn cả Tổ và cả Phật nữa.
Ngày nay, cây, lá, cành và hoa quả đã đâm chồi nẩy lộc tại ngoại quốc. Con cháu của Tổ đã có mặt khắp nơi trên hoàn vũ nầy. Mỗi năm vào ngày mồng 7 tháng 11, dầu ở trong hoàn cảnh nào, Chư Tôn Đức trong Môn phái Chúc Thánh tại Úc châu, Mỹ châu cũng làm lễ kỵ Tổ tại một chùa nào đó trong vùng để tưởng nhớ về công ơn của Tổ đã truyền thừa.
Tại chùa Chúc Thánh ở Hội An, Quảng Nam mỗi năm đến ngày mồng 7 tháng 11 âm lịch cả hàng ngàn, hàng vạn Tăng Ni, Phật tử khắp nơi từ các tỉnh thành đến nơi thôn dã đều vân tập về đây để lễ Tổ. Lễ Tổ đã trở thành đại chúng hóa và Tổ là một nguồn mạch thiêng liêng để cho hàng hậu bối dìu dắt nhau đi vào lãnh vực của tâm linh cũng như sự truyền thừa.
Tổ từ Trung Hoa sang Việt Nam đã chẳng mang theo một vật gì ngoài ba y và một bình bát từ năm 1695. Đến năm 1697, ngôi am tranh Chúc Thánh đã hình thành. Nơi thảo am này, Tổ đã tọa thiền, dạy công án và cuốc đất, trồng khoai. Cuối đời Tổ xuất ra một dòng kệ, mà mãi cho đến ngày nay vẫn truyền chưa xong nửa bài kệ ấy.
Tổ đi, không mang chùa viện và đệ tử theo, mà Tổ để lại tất cả cho người Việt Nam, qua thế hệ thứ 2 là ngài Thiệt Dinh, khai sơn chùa Phước Lâm, ngài Pháp Hóa, Quảng Ngãi, ngài Pháp Chuyên, ngài Toàn Nhật tại Phú Yên Việt Nam… Từ đó, chúng ta cũng có thể định vị cho chỗ đứng của Phật Giáo Việt Nam ngày nay tại hải ngoại nầy. Trước và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, người Việt Nam đã bỏ nước ra đi vì nhiều lí do khác nhau; trong đó có lí do tự do tôn giáo đứng hàng đầu, mà thuở bấy giờ, tại quê hương Việt Nam không có. Do vậy, trên 400 ngôi chùa Việt đã được xây dựng tại các xứ Âu, Mỹ, Úc nầy. Rồi một mai đây, thế hệ thứ nhất, thứ nhì của người tỵ nạn sẽ nằm xuống, thì thế hệ thứ ba, thứ tư phải tiếp tục truyền thừa; nhưng mong rằng Phật giáo Việt Nam tại Đức sẽ hòa quyện và hội nhập vào văn hóa Đức để trở thành Phật giáo của người Đức. Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, Úc châu, Canada… cũng vậy. Nó phải là của người địa phương; chứ không phải mang nặng bản chất Việt Nam suốt thời gian sự truyền thừa được. Mặc dầu khởi thủy từ Việt Nam; nhưng Việt Nam Phật Giáo ấy phải hội nhập vào văn hóa sở tại với các nước Phật Giáo Âu, Mỹ nầy mới là điều đáng tán dương và cổ vũ.
Dẫu Tổ ngày nay không còn nữa và Môn phái Chúc Thánh cũng không còn là của người Trung Hoa nữa, mà là của Phật giáo Việt Nam. Do vậy, chúng ta không ngại ngần gì biến Phật Giáo và Môn phái nầy trở thành của người dân sở tại. Nếu không được như vậy thì Chư Tổ có lẽ các Ngài chẳng hoan hỷ chút nào. Vì giáo lý và Tông phong ấy phải khế hợp cả khế cơ và khế lý, thì môn phái ấy mới tồn tại qua thời gian cùng năm tháng được.
Vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 của năm 2011 nầy, tại Tu viện Viên Đức ở miền Nam nước Đức, tôi được thầy Như Tịnh từ Việt Nam cho hay Sư ông Phổ Bảo, Thích Bảo An đã viên tịch và thọ 98 tuổi. Tôi không ngỡ ngàng, vì biết rằng một ngày nào đó bậc chơn nhân nầy hiện rõ chơn tướng của bậc đại trượng phu cũng sẽ ra đi. Do vậy, tôi đốt nhang cầu nguyện và báo tin nầy cho Hòa Thượng Thích Như Huệ, Trưởng môn phái Lâm Tế Chúc Thánh hải ngoại hay; lúc ấy Ngài đang ở tại Hamburg, thăm Ni viện Bảo Quang của Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm và Ngài đã dạy tôi, nhờ Thầy Như Tịnh lo vấn đề đi phúng điếu cũng như cúng dường. Tất cả đều như pháp.
Nay thì Ngài đã ra đi, tôi chẳng biết những chú chó nơi Tổ đình Phổ Bảo có còn nhớ đến Ngài chăng? Nhưng chắc rằng ở nơi cảnh giới giải thoát kia, bậc chơn nhơn có lẽ sẽ không quên hình ảnh của những con vật, mà ngày xưa nó đã nhiều lần nằm sát bên chân Ngài để sống trong tình thương yêu của chủ, vốn là chân tướng của một bậc đại trượng phu của cửa Thiền.
Nay thầy Giác Hạnh tại Hoa Kỳ muốn là kỷ yếu để tưởng niệm về cố Đại lão Hòa Thượng Thích Bảo An, tôi chỉ biết có bấy nhiêu việc về Ngài; nên chỉ xin viết những gì như mình đã biết về một con người luôn sống cho Đạo Pháp, không phân biệt ranh giới giữa người và vật trong suốt 98 năm đồng chơn thanh tịnh ấy.
Kính nguyện Giác linh Ngài thùy từ chứng giám.
Viết xong ngày 20/4/2011 tại chùa Phật Ân, Hoa Kỳ - Ngày tuyết đổ cuối mùa.
Ấn tượng chùa Đục, chùa Hang trên đảo Lý Sơn
Quảng Ngãi: Ấn tượng chùa Đục, chùa Hang trên đảo Lý Sơn


Những ai từng đặt chân lên huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), quê hương của đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, đều không khỏi ngẩn ngơ khi đến các danh lam thắng cảnh chùa Đục, chùa Hang.
Du khách đặt chân đến những ngôi chùa trường tồn lâu đời cùng huyện đảo quê hương đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, không chỉ thú vị với kiến trúc độc đáo của chùa Đục, chùa Hang mà hành trình đến với những thắng cảnh nổi danh xứ đảo này còn được ví như đường lên tiên cảnh với vẻ đẹp như tranh của núi, của trời, của biển đảo Lý Sơn.
Ngự giữa lưng chừng sườn núi Giếng Tiền, ngọn núi lửa đã ngủ quên hàng ngàn năm trên đảo, du khách phải vượt qua hơn 100 bậc thang men theo sườn núi để đến được Chùa Đục. Tọa lạc ngay tiền sảnh của khu thắng cảnh chùa Đục là tượng Quán Thế Âm cao 27 mét, dẫn lên các điện thờ cổ kính, rêu phong nằm sâu trong lòng núi. Chùa Đục còn gọi là chùa không sư, theo tương truyền của người theo đạo Phật, Quán Thế Âm từng chọn ngự ở đây, trấn giữ bình yên cho dân đảo tránh được những cơn thiên tai.
Từ chùa, theo hướng tượng Quán Thế Âm nhìn ra hướng biển cảnh đẹp như tranh. Thú vị nhất là leo lên tận đỉnh Liêm Tự để nhìn thấy miệng núi lửa bây giờ là một cảnh đồng cỏ xanh hình lòng chảo. Đỉnh núi là một đài ngoạn cảnh tưởng lý tưởng để ngắm nhìn bao quát biển đảo Lý Sơn từ trên cao để hiểu vì sao nơi đây được ví như chốn tiên cảnh
Những hình ảnh dưới đây được ghi nhận từ thắng cảnh chùa Đục (Lý Sơn)

Đường lên chùa Đục men theo lối mòn dưới chân núi Giếng Trời, ngay tiền sảnh khu thắng cảnh là tượng Quán Thế Âm cao 27 mét

có hơn 100 bậc thang men theo sườn núi dẫn đường lên chùa Đục

các điện thờ nằm sâu trong lòng núi

Chùa thờ Đức Phật và Quán Thế Âm

ở đây dường như không có ngăn cách giữa kiến trúc nhân tạo và địa thế tự nhiên

Chùa Đục còn gọi là chùa không sư, tương truyền Quán Thế Âm từng ngự ở đây để giữ bình yên cho dân đảo

đỉnh Liêm Tự là nơi cao nhất ở núi Giếng Trời nơi chùa Đục tọa lạc
 

 
 
 

mỗi góc nhìn từ chùa Đục trên lưng chừng núi đều trông thấy cảnh đẹp như tranh của biển đảo Lý Sơn
Rời chùa Đục, quay ngược về hướng cầu cảng rồi theo hướng đường lên núi Thới Lới không bao xa là đến Chùa Hang. Nếu đến chùa Đục phải leo thang lên núi thì để vào chùa Hang, du khách phải xuống núi. Chùa được khắc tên bằng chữ Hán Nôm là “Thiên khổng thạch tự” (dịch là chùa đá trời xây).
Chùa Hang là nơi thờ tự Phật và các vị tiền hiền đã góp công khai hoang, dựng xây huyện đảo. Điện thờ không quá lớn song đặt trang nghiêm giữa hang động chính. Theo người dân huyện đảo thì trong hang mùa hè mát mẻ, mùa đông ấm áp, là nơi dân đảo cư ngụ khi thời tiết khắc nghiệt. Nằm ngay sát biển, nhưng ngay lối vào hang chính lại có mạch nước ngọt. Du khách không khỏi thú vị khi ngước nhìn mạch nước chảy ra từ đá núi rêu phong. Phong cảnh nhìn từ chùa Hang lại phác họa trong ấn tượng của du khách thêm những bức tranh thủy mạc thiên nhiên ưu đãi ban cho huyện đảo Lý Sơn.
Dưới đây là những hình ảnh ghi nhận tại điểm chùa Hang

chùa Hang nằm ngay chân núi sát bờ biển

phải men theo lối giữa hai sườn núi để đến Chùa Hang

kiến trúc chùa tạo nên từ các hang động nằm trong hệ thống hang động lớn nhất ở Lý Sơn nằm trong lòng núi Thới Lới

phía trước hang thờ chính có đề 4 chữ Hán Nôm "thiên khổng thạch tự", dịch là chùa đá trời tạo
 

nơi đặt bàn thờ Phật, đạt ma và 3 vị tiền hiền đã khẩn hoang xây dựng huyện đảo Lý Sơn

mùa đông, không khí trong hang lại ấm áp, mùa hè lại mát mẻ

gần biển, nhưng chùa Hang lại có mạch nước ngọt chảy ra từ núi đá rêu phong khiến du khách ngẩn ngơ



từ chùa Hang nhìn ra vẫn là những bức tranh biển đảo hùng vĩ đẹp nguyên sơ, thanh bình.
Khánh Hiền
theo  Phật Giáo VN nét.

ĐẾN BÌNH ĐỊNH THĂM CHÙA HANG.
Đến Bình Định thăm cảnh chùa Hang

BĐNN - Đến thị trấn Phù Mỹ, rẽ qua đường Chu Văn An, theo hướng Tây đi thêm chừng 6 km nữa, ta đặt chân đến chùa Hang (tên chữ là Thạch Cốc tự hay Thiên Sanh Thạch tự, nay thuộc xã Mỹ Hòa). Chỉ là một ngôi chùa nhỏ, vậy mà khung cảnh thật nên thơ, đẹp lạ…
Thời gian tới, cảnh quan chùa Hang sẽ đẹp hơn nhờ đang được xây dựng khang trang hơn. Ảnh: Lê Đức Hưng
Tôi ghé qua chùa Hang đúng vào một ngày mưa. Con đường rẽ vào ngôi chùa đã bị xáo lên bởi những đợt xe chở cát, đá đi qua. Nhưng khi đặt chân dưới những gốc cây lớn hai bên lối đá nhỏ dùng làm đường lên cửa chùa thì bao mệt mỏi như tan biến. Để rồi lại hồ hởi cất bước hành trình leo dốc.
Đường khá quanh co, nhưng do được lát bằng những bậc đá, nửa là tự nhiên, nửa có bàn tay chăm chút của con người, nên dễ đi. Hai bên đường là những tảng đá lớn, chen giữa những tán cây. Con đường gấp khúc rồi chợt mở ra bằng một lối nhỏ. Trước mắt ta là một khoảng sân khá rộng, trên có tảng đá lớn nhô ra như một mái hiên khổng lồ. Đó chính là chùa Hang.
Tảng đá khá lớn nhưng chỉ cách mặt đất vài mét. Muốn vào hang, khách hành hương phải cúi người và men từng bước trên những lối nhỏ quanh co. Qua dăm mét, chợt hiện một khoảng không khá rộng, có thiết bàn thờ Phật. Phía trước bàn thờ có một hang nhỏ sâu hun hút, theo lời hiệp thợ đang tôn tạo cảnh chùa, hang sâu này nghe đồn là thông ra tận biển, dài non chục cây số. Sợ có người sảy chân xuống hang nên giờ họ đã lấp miệng hang lại bằng cát. "Chỉ những ngày mưa như hôm nay chúng tôi mới khai thông cho nước rút bớt xuống"- một người thợ nói. Phía sau bàn thờ, con đường nhỏ lại tiếp tục dẫn ta lên miệng hang. Đi trên những bậc đá, thâm u, hoang tịch, lại nghe tiếng nước róc rách, như xa, như gần, cảm giác thành kính mà hoang sơ lạ.
Con đường vòng phía sau tảng đá hóa ra tìm đến miệng hang lại khá thuận. Tảng đá trên miệng hang dài dễ phải hơn chục mét, bề mặt rộng chừng 5 - 6 m. Mặt trên khối đá gồ lên như chiếc bát úp lớn. Thật may là đã có những hõm đẽo sâu vào mặt đá tạo thành bậc nên muốn leo lên đỉnh cũng khá dễ dàng. Trên đỉnh hòn đá, có một mặt bằng khá rộng, có chỗ cho cả chục người cùng nghỉ chân. Phía sau lưng là đá núi lô nhô, chen giữa những thân cây, chỉ hở những lối nhỏ như muốn mời những ai có ý thích khám phá. Phóng tầm mắt ra xa, trước mặt, về hướng đông, ruộng vườn, nương rẫy trải dài một màu xanh bạt ngàn.
Vãn cảnh chùa xong, tôi ghé vào ngôi nhà nhỏ nép dưới chân núi - nơi ở của hai mẹ con người coi chùa. Bà Võ Thị Dũng, năm nay đã 103 tuổi, đầu óc hãy còn minh mẫn, nhưng không cách nào nói để cho bà nghe và hiểu được. Còn người con, bà Lê Thị Tiến, năm nay cũng đã ở tuổi thất thập, thì phải dùng máy nghe. Bà Tiến theo mẹ lên ở dưới mái chùa từ hồi còn bé. Hai mẹ con bà bị nặng tai do dư chấn một trận bom Mỹ trong những năm chiến tranh.
Bà Tiến kể cho tôi nghe bao chuyện truyền tụng về ngôi chùa. Truyền rằng những khi nắng hạn, nghe trên núi có tiếng ồ ồ như tiếng xay lúa thì liền đó trời đổ mưa to, mưa lâu ngày mà có tiếng như thế thì biết là trời sắp nắng. Và cách đó chừng vài mét, bà Hường, người xã Mỹ Trinh, đang phụ giúp nhà chùa trong những ngày có việc, chỉ cho tôi một mạch giếng nhỏ, giống như con suối nhưng lại có mạch từ lòng núi chảy ra. Giếng này không bao giờ cạn - bà Hường nói.
Theo Quách Tấn trong Võ nhân Bình Định và Nước non Bình Định thì dưới triều Thành Thái, khoảng 1890, một lão tăng, không ai biết danh tánh là gì, quê quán ở đâu, đến ở tu nơi đây. Lão tăng tuổi độ trên dưới 70, tu theo khổ hạnh đầu đà. Không biết pháp danh, pháp hiệu, người địa phương gọi lão tăng là "thầy chùa Hang" hay "thầy chùa Đá Bạc".
Năm Giáp Ngọ (1894) bệnh thiên thời hoành hành khắp huyện Phù Cát, người chết chôn không kịp. Có làng dân phải đốt nhà, di tản đi nơi khác để tránh truyền nhiễm. Giữa lúc ấy thì "thầy chùa Đá Bạc" xuất hiện, đi cho thuốc khắp nơi. Nhiều người khỏi bệnh. Chẳng những người trong khắp tỉnh Bình Định, mà cả người ở Phú Yên, Quảng Ngãi, cũng tìm tới xin thuốc. Chùa Hang nổi danh từ đó.
Cảnh chùa Hang đẹp là thế. Nhưng vẻ đẹp ấy hiện vẫn chưa được khai thác. Hậu quả của những đợt khai thác đá xây dựng thời gian qua đã làm cho những tảng đá lớn trên đường vào chùa như bị gặm nát. Chùa Hang sẽ là một điểm hành hương, du lịch văn hóa hấp dẫn nếu thật sự được đầu tư.
Nguồn: Báo Bình Định

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét